Ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 622/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Trong 17 mục tiêu chung phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam, có nhiều mục tiêu liên quan đến người khuyết tật.
Với thông điệp “không để ai bị bỏ lại phía sau”, việc trao đổi, thảo luận, nghiên cứu các mục tiêu phát triển bền vững nói chung, các mục tiêu liên quan đến người khuyết tật nói riêng là việc làm cần thiết để xây dựng được kế hoạch bảo đảm các mục tiêu phát triển bền vững phù hợp với luật pháp, nhân lực, nguồn lực của Việt Nam trong giai đoạn này.
Quan điểm về sự phát triển bền vững
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.
Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân. Để đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 cần sự huy động mọi nguồn lực xã hội, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ ngành địa phương, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các bên liên quan. Con người là trung tâm của sự phát triển bền vững, phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Phát triển bền vững là tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp, hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Trong một xã hội phát triển, sẽ không để ai bị bỏ lại phía sau, những đối tượng khó tiếp cận được tiếp cận trước, khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực cho phát triển bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất.
Để hiện thực hoá quan điểm này, ngày 10/5/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 622/QĐ-TTg, về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Kế hoạch hướng tới mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển, xây dựng một xã hội Việt Nam hoà bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng văn minh và bền vững.
Các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam
Trong kế hoạch hành động đã nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam bao gồm:
1-Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi;
2-Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững;
3-Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi;
4-Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người;
5-Đạt được bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái;
6-Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người;
7-Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người;
8-Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục, tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người;
9-Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới;
10-Giảm bất bình đẳng trong xã hội;
11-Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu, đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng;
12-Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững;
13-ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai;
14-Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững;
15-Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất;
16-Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người, xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp;
17-Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
Với 17 mục tiêu, bao gồm 115 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu theo Văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững” được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 9/2015.
Để đạt được những mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành liên quan trong giai đoạn 2017-2020 cần thực hiện các nhiệm vụ, hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững, trong năm 2018 hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch hành động của các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, xây dựng các chương trình, đề án, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030. Đồng thời, thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về các mục tiêu phát triển bền vững và Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Xây dựng và ban hành chỉ tiêu và lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030… Lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, các chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước theo các mục tiêu phát triển bền vững mọi lĩnh vực, chú trọng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, hoạch định chính sách...
Giai đoạn 2021- 2030 sẽ triển khai toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp của Kế hoạch hành động để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030.
Các mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến NKT
Trong 17 mục tiêu chung và 155 mục tiêu cụ thể của Kế hoạch, có một số mục tiêu liên quan đến NKT.
Mục tiêu thứ nhất “Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi” trực tiếp liên quan đến NKT vì trên thực tế, vấn đề khuyết tật và nghèo đói luôn song hành. Nghiên cứu, tìm ra các giải pháp triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu này cũng chính là giúp giảm nghèo bền vững đối với đối tượng nghèo thuộc nhóm dễ bị tổn thương, người dân tộc thiểu số, NKT, phụ nữ, trẻ em.
Mục tiêu đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người cũng là một trong những vấn đề được nhiều NKT quan tâm, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục hoà nhập, giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết tật. Vì vậy, cần tăng cường thực hiện chính sách hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo, người trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương, NKT có điều kiện tiếp cận dịch vụ giáo dục nghề nghiệp theo nhu cầu. Làm sao đến năm 2030, đảm bảo tiếp cận bình đẳng trong giáo dục và đào tạo, đào tạo nghề nghiệp cho những người dễ bị tổn thương bao gồm cả NKT, người dân tộc và trẻ em trong những hoàn cảnh dễ bị tổn thương. Mở rộng giáo dục nghề cho các đối tượng chính sách, người nghèo, cận nghèo và quan tâm giáo dục nghề phù hợp cho NKT. Xây dựng và nâng cấp các cơ sở giáo dục thân thiện với trẻ em, NKT và bình đẳng giới và cung cấp môi trường học tập an toàn, không bạo lực toàn diện và hiệu quả cho tất cả mọi người.
Trong mục tiêu về đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người, vấn đề NKT quan tâm là làm sao đảm bảo tiếp cận công bằng các công trình và điều kiện vệ sinh phù hợp cho tất cả mọi người, đặc biệt là nhu cầu về công trình vệ sinh, nước sạch cho NKT, chấm dứt vệ sinh ngoài trời, 100% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh.
Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục, tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người là mục tiêu quan trọng nhưng vẫn là vấn đề vẫn còn nhiều bất cập trong giai đoạn hiện nay. Đề án Trợ giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020 đã đề ra chỉ tiêu đến năm 2020 có 300.000 NKT trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp. Tuy nhiên, đến nay, mới chỉ có khoảng 120.000 người được hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm. Việc nghiên cứu, triển khai các biện pháp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu này của kế hoạch sẽ đáp ứng mong mỏi và nhu cầu thiết yếu của hàng triệu NKT trong độ tuổi lao động nói riêng, người lao động cả nước nói chung.
Về mục tiêu giảm bất bình đẳng trong xã hội, theo kế hoạch đến năm 2030 sẽ tăng cường hơn nữa, đẩy mạnh sự tham gia chính trị, kinh tế và xã hội của tất cả mọi người không kể tuổi tác, giới tính, khuyết tật, sắc tộc, dân tộc, nguồn gốc, tôn giáo, điều kiện kinh tế hoặc điều kiện khác, là một mục tiêu hết sức nhân văn, thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện quyền của NKT.
Liên quan trực tiếp đến NKT còn có mục tiêu số 11 về phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu, đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng được cộng đồng NKT hết sức quan tâm. Mục tiêu này hướng đến việc đảm bảo mọi người dân được tiếp cận với hệ thống giao thông an toàn, trong khả năng chi trả, thuận tiện và bền vững, cải thiện an toàn giao thông, mở rộng giao thông công cộng với chú ý đặc biệt tới nhu cầu của phụ nữ, trẻ em, NKT và người cao tuổi.
Có thể nói, các mục tiêu trên trong kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững đã đề cập đến những vấn đề liên quan mật thiết đến nhu cầu của NKT. Những vấn đề này trước đây cũng đã được đề cập rất cụ thể và chi tiết trong các văn bản pháp luật của Việt Nam như Luật NKT, Bộ Luật lao động, Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020, Công ước quốc tế về quyền của NKT… Việc lồng ghép vấn đề của NKT vào trong các mục tiêu chung của Chương trình nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững của Việt Nam thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ Việt Nam đối với NKT, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc triển khai thực hiện các cam kết quốc tế.
Để triển khai thực hiện Kế hoạch nói chung, hoàn thành các mục tiêu liên quan đến NKT nói riêng, một số giải pháp được đưa ra là cần nâng cao nhận thức và hành động của toàn xã hội về phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Huy động tham gia của cả hệ thống chính trị, các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, cộng đồng doanh nghiệp; tăng cường và huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, sự phối hợp giữa các cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp, các tổ chức chính trị, xã hội, các hiệp hội ngành nghề, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và sự phối hợp giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương trong triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững để bảo đảm tính tích hợp và lồng ghép của các mục tiêu…
Nguồn: Tạp chí Người Bảo trợ
Tin cùng chủ đề
Tin mới
- Uỷ ban Quốc gia về NKT: Thúc đẩy thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật về người khuyết tật giai đoạn 2017 – 2020 - 21/11/2017 03:48
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục học sinh khuyết tật - 03/11/2017 06:54
- Nghề công tác xã hội với người khiếm thị - 02/11/2017 07:59
- Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam: Đổi tên Hội - Từ nhận thức đến tư duy, hành động - 20/10/2017 06:39
- 7 loại hình trợ giúp xã hội được nhà nước khuyến khích thành lập - 21/09/2017 07:55
Các tin khác
- Ứng dụng công nghệ thông tin giúp nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục - 01/09/2017 04:03
- Một số vấn đề cần quan tâm trong giáo dục cho NKT - 01/09/2017 03:35
- Những vấn đề còn bất cập trong việc thực hiện Luật nuôi con nuôi - 01/09/2017 03:17
- Gian nan công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người khiếm thính - 15/08/2017 11:11
- Truyền thông nâng cao nhận thức về tình yêu, hạnh phúc gia đình NKT - 07/08/2017 09:20