Thứ năm, 14 Tháng 11 2013 09:23

Tại Hội thảo "Nghiên cứu phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT" (từ đây gọi tắt là Công ước), Vụ Pháp chế, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra bản đánh giá mức độ tương thích giữa quy định của Công ước với quy định của pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm rà soát, so sánh, từ đó đưa ra những phân tích đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam và Công ước, tiến tới phê chuẩn Công ước. Tạp chí Người bảo trợ xin giới thiệu nội dung cơ bản báo cáo do bà Nguyễn Thị Ngọc Yến (Phó trưởng phòng Pháp luật quốc tế, Vụ Pháp chế, Bộ LĐ-TB&XH) trình bày tại Hội thảo.


Về khái niệm NKT: theo đánh giá, pháp luật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT cơ bản phù hợp với Công ước, đồng thời cũng đã phân loại khuyết tật phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng khái niệm "tàn tật" hay "khuyết tật". Hiến pháp Việt Nam và một số văn bản pháp luật hiện hành vẫn sử dụng thuật ngữ "tàn tật". Bên cạnh đó, so sánh với quy định của Công ước, pháp luật Việt Nam chưa đưa ra khái niệm về "giao tiếp", "ngôn ngữ", "điều chỉnh hợp lý", "thiết kế hòa nhập"... Đối với khái niệm "phân biệt đối xử", quy định trong Luật NKT được thể hiện dưới dạng các hành vi cụ thể, còn trong Công ước, khái niệm này được hiểu theo nghĩa rộng hơn, có thể dưới dạng hành động hoặc thể hiện dưới dạng không hành động "bao gồm tất cả các hình thức phân biệt đối xử, kể cả từ chối đưa ra những điều chỉnh hợp lý".


Về chính sách đối với NKT: Các nguyên tắc, nghĩa vụ chung cũng như chính sách trong việc chăm sóc NKT, trẻ em khuyết tật, phụ nữ khuyết tật quy định tại pháp luật Việt Nam về cơ bản phù hợp với quy định của Công ước và có điểm tiến bộ khi Luật NKT đưa ra quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, đối với vấn đề trẻ em khuyết tật, phụ nữ khuyết tật cũng như nâng cao nhận thức về NKT, pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể, thành các điều khoản riêng.


Vấn đề bình đẳng trước pháp luật: Tại Điều 12, Công ước yêu cầu loại bỏ việc lấy khuyết tật là căn cứ để tước đi năng lực pháp luật của NKT. Đối chiếu với Công ước, pháp luật Việt Nam hiện nay quy định chung tại Điều 52 của Hiến pháp năm 1992: "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật". Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về việc cung cấp các biện pháp tương thích và thiết kế riêng cho hoàn cảnh của một NKT.


Vấn đề tiếp cận giao thông, CNTT và truyền thông: về cơ bản, các quy định hiện hành của Việt Nam phù hợp với quy định của Công ước. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về cơ quan chịu trách nhiệm thực thi những quy định này. Quy định Luật NKT về CNTT và truyền thông dành cho NKT mới chỉ dừng lại ở mức khuyến khích phát triển mà chưa có quy định cụ thể để NKT có thể tiếp cận được, đặc biệt về sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, cỡ chữ lớn và những hình thức truyền thông khác.
Về vấn đề tiếp cận luật pháp: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công dân Việt Nam không phân biệt là NKT hay không khuyết tật đều có quyền và được tạo điều kiện tiếp cận pháp luật bình đẳng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc tiếp cận luật pháp dành riêng cho NKT như quy định tại Công ước. Vì vậy, đây là điểm cần lưu ý trong quá trình sửa đổi, bổ sung pháp luật Việt Nam để phát huy vai trò của NKT trong lĩnh vực pháp luật.

 

NKT tham gia phỏng vấn tìm kiếm việc làm (minh họa)


Về vấn đề quyền được sống, tôn trọng về phẩm giá, không bị bóc lột, lạm dụng của NKT: Các quy định tại Công ước (Điều 10, 15, 16,17) cho thấy, Công ước thiết lập quyền bình đẳng của tất cả những NKT được sống trong cộng đồng, quyền lựa chọn bình đẳng như những người khác, không bị bóc lột, lạm dụng. Đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam mọi NKT đều có quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Tuy nhiên, việc đảm bảo quyền của trẻ em được sống với gia đình hoặc sống với một gia đình thay thế, việc thiết lập một hệ thống chăm sóc hỗ trợ cho tất cả trẻ em khuyết tật, bảo đảm trẻ em khuyết tật có thể sống an toàn trọng cộng đồng như yêu cầu của NKT vẫn là một thách thức đối với Việt Nam. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể, chuyên biệt về vấn đề này.


Về vấn đề tự do và an ninh con người: Quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với Công ước bao gồm quyền tự do và bảo đảm an ninh, tự do di chuyển, tự do quốc tịch, ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin của NKT. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật Việt Nam còn chưa cụ thể và chưa có các biện pháp hiệu quả để đảm bảo về tiếp cận thông tin của NKT.


Về giáo dục: Hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản về việc giáo dục cho NKT, không chỉ có các văn bản chuyên biệt mà còn có các văn bản chuyên ngành về giáo dục. Pháp luật quy định chế độ trợ giúp đối với học sinh là NKT, chế độ ưu đãi đối với giáo viên giảng dạy học sinh khuyết tật, giáo dục hòa nhập cho NKT. Tuy nhiên Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên "đảm bảo một hệ thống giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp", pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.


Về chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ và PHCN để NKT sống độc lập và hòa nhập cộng đồng: các quy định của pháp luật Việt nam về chính sách này khá đầy đủ và cơ bản phù hợp với quy định của Công ước. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chính sách, chưa có quy định cụ thể về hỗ trợ NKT để họ có thể tiếp cận được dịch vụ hỗ trợ tại nhà, tại khu vực sinh sống và trong cộng đồng. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể xử phạt đối với việc từ chối cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc chăm sóc y tế, hoặc thức ăn, nước uống... mang tính chất phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật theo quy định tại Điều 25 Công ước Quyền của NKT.


Vấn đề việc làm: pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức quy định chung đối với các cơ sở dạy nghề mà chưa có quy định về đánh giá mức độ khuyết tật theo khả năng lao động. Vì vậy, việc dạy nghề cho NKT khó có thể phù hợp với khả năng lao động của họ và yêu cầu nghề nghiệp tương lai. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam về dạy nghề và việc làm là phù hợp với quy định của Công ước. Tuy nhiên, theo Điều 27 của Công ước, cần bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh việc tuyển dụng NKT vào khu vực công và bảo đảm có sự điều chỉnh hợp lý tại nơi làm việc để tạo điều kiện cho NKT làm việc.


Về mức sống và bảo trợ xã hội đối với NKT: các chính sách trợ cấp, nuôi dưỡng NKT được quy định tương đối đầy đủ, rõ ràng, cụ thể và phù hợp với quy định của Công ước. Tuy nhiên do nguồn kinh phí hạn hẹp, việc trợ cấp, nuôi dưỡng mới chỉ thực hiện với những NKT nặng và dừng lại ở mức độ hỗ trợ, đồng thời mức trợ cấp còn hạn chế, chưa đảm bảo khắc phục hết những khó khăn của NKT.


Về vấn đề tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, quy định của pháp luật Việt Nam có nhiều điểm tiến bộ hơn và đã có quy định về tiếp cận văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch dành cho NKT phù hợp với Công ước.


Về thống kê và thu thập số liệu: Luật NKT quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan khác nhau. Trong đó Bộ LĐ-TB&XH được giao là đầu mối thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực NKT trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có quy định rõ về việc cơ quan nào chịu trách nhiệm giám sát việc triển khai thực hiện Công ước Quyền của NKT.


Nhìn chung, các quy định của Công ước không mâu thuẫn và phù hợp với các quy tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong việc chăm sóc, bảo vệ NKT. Tuy vậy, Công ước cũng đưa ra một số điều kiện chăm sóc cao hơn pháp luật Việt Nam, đặc biệt trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng, giải trí, tiếp cận pháp luật, tham gia các hoạt động chính trị và cộng cồng. Do vậy cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng nâng cao hơn nữa các điều kiện chăm sóc để đảm bảo vừa phù hợp với Công ước vừa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.


Hoàng Dung (ghi)

Thêm bình luận


Mã an ninh
Làm tươi