Thứ ba, 15 Tháng 12 2015 11:10

Trong hai ngày 26, 27/11, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình thực hiện Luật NKT và Đề án Trợ giúp NKT. Dự Hội nghị, có Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm; Chủ tịch Trung ương Hội Nguyễn Đình Liêu; lãnh đạo sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trong cả nước cùng đại diện các ban, ngành hữu quan, tổ chức xã hội vì NKT và của NKT ở một số địa phương.

 

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm cho biết, Hội nghị nhằm đánh giá tình hình triển khai, thực hiện Luật NKT và các mục tiêu của Đề án Trợ giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020 (Đề án 1019), những kết quả ban đầu, thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai Luật và Đề án. Qua đây, cũng đánh giá việc phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan được giao nhiệm vụ; giữa các cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội, đặc biệt là giữa ngành Lao động - Thương binh và Xã hội với các tổ chức vì NKT và của NKT. Thứ trưởng nhận định, những nội dung được đưa ra báo cáo, nghiên cứu, thảo luận tại Hội nghị là tiền đề quan trọng chuẩn bị cho việc triển khai giai đoạn 5 năm tiếp theo của Đề án 1019, góp phần tích cực đưa Luật NKT đi vào đời sống. Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm cũng đề nghị, trong thời gian tới, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cả nước phải phát huy hơn nữa vai trò chủ động trong việc thực hiện, triển khai Luật và Đề án, tích cực phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức vì NKT và của NKT để nhóm đối tượng này được hưởng đầy đủ các quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân của mình.

 

Chính sách pháp luật tạo chuyển biến tích cực đối với cuộc sống NKT

 

Luật NKT ra đời đánh dấu một bước tiến bộ trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về NKT trên cơ sở tiếp cận quyền con người. Luật đã tạo môi trường pháp lý, điều kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với NKT; thúc đẩy sự tôn trọng, chăm lo của Nhà nước và xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhóm đối tượng này.

 

Sau khi Luật NKT được Quốc hội thông qua, các Bộ, ngành hữu quan xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đến nay, về cơ bản, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan đã ban hành tương đối đẩy đủ các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều khoản; điều chỉnh toàn diện và cụ thể các vấn đề được nêu trong Luật, tạo nên một hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất và toàn diện về lĩnh vực NKT, tạo điều kiện thuận lợi để các chính sách trong Luật đi vào cuộc sống. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Luật được triển khai đồng bộ và sâu rộng; việc kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về NKT được tiến hành thường xuyên, kịp thời phát hiện và uốn nắn, xử lý những trường hợp vi phạm; hợp tác quốc tế về NKT được đẩy mạnh, đặc biệt Quốc hội khóa 12 đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước về quyền của NKT đã khẳng định cam kết và trách nhiệm của Việt Nam trong việc tạo điều kiện để NKT được thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

 

Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH, sau 5 năm thực hiện Luật NKT đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Đến nay, 100% xã phường, thị trấn trong cả nước đã thành lập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật cấp xã theo đúng quy định. Đã có 1.311.332 NKT được cấp giấy xác nhận khuyết tật (đạt tỷ lệ khoảng 18,7%), đa số là các trường hợp NKT nặng, đặc biệt nặng. Số NKT được hưởng chính sách bảo trợ XH theo quy định của Luật tăng theo hàng năm, đến 2014 là 796.521 người. Cả nước hiện có 67 cơ sở trợ giúp NKT cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, PHCN, lao động, dạy nghề… và nuôi dưỡng NKT, đến năm 2014, số NKT được nuôi dưỡng tại cơ sở BTXH là trên 18.000 người. Đội ngũ cán bộ chăm sóc, hỗ trợ NKT cũng được phát triển và nâng cao năng lực đã góp phần trợ giúp đối tượng tiếp cận, thụ hưởng các chính sách phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, dạy nghề, việc làm để ổn định cuộc sống.

 

Các vấn đề chăm sóc sức khỏe cho NKT được quan tâm; chính sách giáo dục đối với NKT đã được cụ thể hóa và triển khai thực hiện; mạng lưới cơ sở dạy nghề có dạy nghề cho NKT gia tăng đáng kể với khoảng 1,130 cơ sở (tính đến năm 2014), giai đoạn 2010 – 2014 đã có khoảng 120.000 người được hỗ trợ học nghề và tạo việc làm. Hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch cho NKT ngày càng được quan tâm; các Bộ, ngành liên quan đã ban hành các văn bản quy định thực hiện việc bảo đảm tiếp cận của NKT đối với nhà chung cư, công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông. Hoạt động trợ giúp pháp lý được đẩy mạnh với 63 Trung tâm, 161 chi nhánh, 120 phòng chuyên môn làm công tác trợ giúp pháp lý. Số lượng tổ chức của/vì người khuyết tật gia tăng đáng kể, tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào các công tác hỗ trợ NKT.

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Luật NKT vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc: đời sống của một bộ phận không nhỏ NKT còn thấp, vẫn còn NKT chưa được tiếp cận hoặc chưa tiếp cận đầy đủ các chính sách ưu đãi của Nhà nước; nhận thức của một bộ phận cán bộ và người dân về vấn đề NKT chưa đầy đủ; công tác chỉ đạo triển khai Luật tại một số nơi còn chậm, thiếu sâu sát… Nguyên nhân của những hạn chế này là do tiến độ xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật của Bộ, ngành liên quan còn chậm; chưa có cơ chế thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan hữu quan trong việc triển khai, thực hiện; ngân sách bố trí thực hiện các chính sách của Luật còn hạn chế; khoảng 70% NKT sống ở khu vực nông thôn bị mù chữ nên khó khăn trong việc thực hiện các giải pháp dạy nghề, tạo sinh kế…

 

Hoàn thành 5/9 nhóm chỉ tiêu giai đoạn 1 của Đề án 1019

 

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện giai đoạn 1 của Đề án Trợ giúp NKT (từ năm 2012 - 2015), có 5/9 nhóm chỉ tiêu của Đề án đạt được hoàn thành, đó là các nhóm mục tiêu về tiếp cận các dịch vụ y tế; giáo dục; tham gia giao thông; công nghệ thông tin và truyền thông và trợ giúp pháp lý. Hạ tầng cơ sở vật chất xã hội phục vụ chăm sóc NKTnhư cơ sở bảo trợ XH, cơ sở chăm sóc NKT, Trung tâm CTXH, cơ sở giáo dục, y tế, dạy nghề… được đầu tư, hình thành và phát triển cả về số lượng, quy mô, phạm vi và chất lượng phục vụ, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng, PHCN, học chữ, học nghề của NKT. Đội ngũ cán bộ xã hội, cán bộ hỗ trợ NKT, mạng lưới cộng tác viên xã phường phát triển về số lượng, được trang bị tốt hơn những kiến thưc, kỹ năng chăm sóc đối tượng xã hội, NKT. Công tác bảo trợ NKT được quan tâm thực hiện nghiêm túc theo quy định của Luật NKT và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo đúng và tránh bỏ sót đối tượng. Nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn trong lĩnh vực xây dựng, giao thông, CNTT, truyền thông đảm bảo tiếp cận của NKT được ban hành và triển khai trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT khi tham gia giao thông và tiếp cận công trình công cộng.

 

Dù vậy, kết quả thực hiện Đề án vẫn còn nhiều hạn chế, một số chỉ tiêu đề ra của Đề án không đạt được, đó là các chỉ tiêu dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật và biểu diễn; tiếp cận công trình xây dựng, cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở giáo dục, công trình trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước. Việc triển khai thực hiện đề án còn chưa kịp thời, công tác kiểm tra, giám sát đánh giá hoạt động hỗ trợ từ Trung ương đến địa phương chưa được thường xuyên. Số lượng NKT được hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu; nhất là hỗ trợ học nghề, tạo việc làm và vay vốn phát triển kinh tế. Kinh phí thực hiện Đề án còn hạn hẹp, ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. NKT vẫn có xu hướng gia tăng trong khi dịch vụ thiếu và việc tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi xã hội đang còn khó khăn. Hệ thống trợ giúp NKT nói chung và mạng lưới dịch vụ trợ giúp NKT nói riêng chưa phát triển nên việc phòng ngừa, phát hiện, can thiệp sớm để giảm thiểu, loại bỏ nguy cơ và trợ giúp phục hồi tái hòa nhập cộng đồng cho NKT chưa hiệu quả. Hệ thống tư pháp chưa thân thiện với NKT, một số quy định con chung chung, thiếu cụ thể nên đia phương khó thực hiện.

 

Những tồn tại trong việc thực hiện Đề án 1019 được nhận định là do ba nguyên nhân chính: nhận thức về tầm quan trọng về việc thực hiện đề án chưa được đầy đủ; hệ thống tổ chức trợ giúp NKT chậm được củng cố, kiện toàn, ngân sách phân bổ còn thấp và do tác động của quá trình phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Để có thể giải quyết được những nguyên nhân này, đòi hỏi sự quan tâm, vào cuộc, nỗ lực rất lớn của cả nhà nước, cộng đồng và xã hội. Trong đó, đầu tiên phải kể đến là trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, cần rà soát, nghiên cứu, xây dựng, bổ sung các văn bản hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc. Phải duy trì và tăng cường hơn nữa công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, nâng cao trách nhiệm của các cấp, ngành trong thực hiện Đề án 1019; tăng kinh phí tài chính để đảm bảo điều kiện thúc đẩy triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nội dung của Đề án, đặc biệt đối với các địa phương còn khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện chính sách, chương trình trợ giúp NKT, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm thực hiện các hoạt động trợ giúp NKT…

 

Hoi nghi1

Chủ tịch Trung ương Hội Nguyễn Đình Liêu phát biểu tại Hội nghị

 

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Trung ương Hội Nguyễn Đình Liêu đã khẳng định vai trò, trách nhiệm và sự chủ động của Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam trong việc tham gia cùng Nhà nước thực hiện các hoạt động trợ giúp NKT nói chung và Đề án 1019 nói riêng. Trong 5 năm qua, Hội và các tổ chức thành viên đã huy động sự đóng góp của toàn xã hội trong việc trợ giúp NKT với số tiền và hiện vật quy tiền là 1.434 tỷ đồng, trợ giúp cho gần 5 triệu lượt NKT. Riêng trong lĩnh vực dạy nghề, tạo việc làm, Hội xác định quan tâm đến dạy nghề cho NKT tại cộng đồng, lấy nông thôn làm địa bàn hoạt động chủ yếu, hướng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa theo phương châm dạy nghề NKT và đơn vị sử dụng lao động KT cần chứ không dạy nghề chúng ta có. Hơn 4 năm qua, Hội đã tổ chức dạy nghề cho 10.795 NKT với số tiền gần 32 tỷ đồng, trong đó Hội thực hiện Chương trình MTQG dạy nghề cho hơn 2.420 NKT, tạo việc làm cho hơn 1.800 người (đạt tỷ lệ 77%).

 

Chủ tịch TƯ Hội Nguyễn Đình Liêu nhận định, hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho NKT là rất khó khăn, phức tạp và đặc thù trong khi các quy định đối với hoạt động này hiện còn bất cập, thiếu thống nhất. Chủ tịch Trung ương Hội cho rằng, chỉ tiêu dạy nghề, tạo việc làm cho NKT theo Đề án 1019 không cao nếu so với số lượng và nhu cầu của NKT, tuy nhiên do nhận thức, do công tác chuẩn bị cho NKT bước vào học nghề, sự bất cập, khó khăn về chính sách đã làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này. Vì thế, để góp phần hoàn thành chỉ tiêu về dạy nghề, tạo việc làm cho NKT mà Đề án đã đề ra, đòi hỏi phải có những chính sách ưu tiên về thời gian học, kinh phí phù hợp với thực tế và phải thống nhất thực hiện trong cả nước. Ông Nguyễn Đình Liêu cũng chia sẻ về kết quả của Chương trình Hỗ trợ sinh kế cho NKT, TMC tại xã xây dựng nông thôn mới mà Hội đang thực hiện, đồng thời kiến nghị bổ sung hoạt động hỗ trợ sinh kế cho NKT vào nội dung hoạt động của Đề án giai đoạn 2015 - 2020 nhằm cải thiện và nâng cao đời sống cho NKT một cách bền vững.  

 

 

Nguồn: Tạp chí Người bảo trợ

Thêm bình luận


Mã an ninh
Làm tươi