Thủ tướng: Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt

 Sáng 19/12, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự khai mạc Triển lãm Quốc phòng quốc tế...
Thứ sáu, 14 Tháng 1 2022 08:58
 Những ngày nói trên không ghi trong lịch Dương, mà thường ghi trong những cuốn lịch được gọi là Âm lịch, vì vậy dễ gây hiểu lầm rằng tất cả chúng được tính theo Âm lịch. Nhân dịp Xuân về, bài này góp phần giải thích sự khác nhau giữa những ngày đó.
 
1. Một năm Dương lịch, 365 ngày, là thời gian Trái đất đi hết một vòng trên quỹ đạo gần tròn quanh Mặt trời. 1 năm được chia thành 12 tiết và 12 khí xen kẽ nhau, nhưng thường gộp lại gọi chung ngắn gọn là 24 tiết. Mỗi tiết cách nhau 15 độ (24 × 15 độ = 360 độ), đánh dấu 24 điểm chính xác vị trí của Trái đất trên quỹ đạo. Đó là những thời điểm không theo lịch Mặt trăng. Vì vậy, các tiết luôn xảy ra trong ngày cố định theo Dương lịchmà không xảy ra vào ngày cố định theo Âm lịch.
Vì Trái đất quay không ngừng nghỉ quanh Mặt trời với tốc độ rất nhanh, gần 30 km/s, nên các tiết là nhữngthời điểm có thể tính chính xác đến miligiây và qua đi trong chớp mắt.Thực tế, trên lịch không ghi chính xác thời điểm tiết, mà chỉ ghi ngày xảy ra khoảnh khắc đó, chẳng hạn nói “ngày Lập Xuân” nghĩa là ngày đó chứa tiết Lập Xuân.
Tuy nhiên, hầu hết tài liệu tiếng Việt viết rằng “Tiết… bắt đầu vào ngày… và kết thúc vào ngày…”, tức là kéo dài cả một thời khoảng, như ví dụ nêu ở Hình 1. Sai lầm này có thể là do tên gọi trong Âm lịch của các tiết thường gắn liền với một kiểu thời tiết, dễ gây hiểu nhầm “tiết, solar terms” thành “tiết trời, weather”.
Chú thích ảnh
Hình 1: Ví dụ một tài liệu viết sai. Ảnh: Internet
2. Có 4 tiết quan trọng là Xuân phân (21/3), Hạ chí (22/6), Thu phân (23/9) và Đông chí (22/12), tất cả đều theo Dương lịch. Chúng đặc biệt ở chỗ:
-Xuân phân và Thu phân là 2 điểm đối diện nhau trên quỹ đạo, khi đường tia chiếu từ tâm Mặt trời đến tâm Trái đất cắt đường Xích đạo (hình 2). Do đó, cả 2 bán cầu nhận được lượng ánh sáng Mặt trời như nhau, nên ngày và đêm dài bằng nhau.
-Hạ chí và Đông chí là 2 điểm đối diện khác tạo thành đường vuông góc với đường nói trên, khi đường tia chiếu từ Mặt trời lệch nhất, cắt Chí tuyến Bắc và Nam tương ứng.
Vào ngày Hạ chí, Bắc bán cầu nhận được ánh sáng Mặt trời nhiều nhất trong năm, nên có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất, và xung quanh ngày đó, vùng cực có những đêm trắng; còn vào ngày Đông chí, nhận được ánh sáng Mặt trời ít nhất, nên có ngày ngắn nhất, đêm dài nhất.
3. Âm lịch, mà một số nước Đông Á và Việt Nam còn dùng, có nguồn gốc từ thời cổ Trung Hoa với cư dân làm nông nghiệp. Trong lịch này, ngày tháng năm được tính theo chu kỳ của Mặt trăng; nhưngkhi điều chỉnh tháng thiếu (29 ngày), tháng đủ (30 ngày) và tháng nhuận, hay khi nói về hoàng đạo và các tiết thì lại liên quan đến Mặt trời. Vì vậy, thực ra nó là sự kết hợp Âm lịch vàDương lịch.
Điểm đặc biệt của Âm lịch là ở tên gọi các tiết có liên quan đến thời tiết nghề nông vùng châu thổ các sông Hoàng Hà và Dương Tử. Ví dụ: Lập xuân - Vào Xuân, Kinh trập - Sâu nở, Thanh minh - Trong sáng, Cốc vũ - Mưa rào, Đại thử - Nóng nực, Thu phân - Giữa thu, Đại tuyết - Tuyết dày v.v... Tuy nhiên, các tên gọi này càng xuống phía Nam càng mất dần ý nghĩa.
Vì vậy, các mùa theo Âm lịch và theo Dương lịch có sự khác biệt. Theo Âm lịch ở vùng Đông Á và Việt Nam, các mùa bắt đầu vào các tiết “Lập”, như Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu và Lập Đông; còn giữa mỗi mùa là các tiết “phân” và “chí”, lần lượt Xuân phân, Hạ chí, Thu phân và Đông chí.
Trong khi đó, ở các nước theo Dương lịch, các mùa bắt đầu vào các tiết “phân” và “chí”:
- Phần Bắc bán cầu, các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông bắt đầu lần lượt vào các tiết Xuân phân 21/3, Hạ chí 22/6, Thu phân 23/9 và Đông chí 22/12; tức là bắt đầu muộn hơn ở nước ta khoảng 45 ngày.
-Phần Nam báncầu, ngược lại: 21/3 bắt đầu mùa Thu, 22/6 bắt đầu mùa Đông, 23/9 bắt đầu mùa Xuân và 22/12 bắt đầu mùa Hạ.
Chú thích ảnh
Hình 2: Các tiết đặc biệt và 4 mùa theo Dương lịch ở Bắc bán cầu. Ảnh: Internet
4. Trong khi các tiết được tính theo lịch Mặt trời (Dương lịch) thì Giao thừa và Tết Nguyên đán truyền thống ở Đông Á lại tính theo ngày tháng Âm lịch. Các điểm Sóc, Vọng và các ngày Tết, như Nguyên đán (mùng 1 tháng Giêng), Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng), Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5), Trung thu (rằm tháng 8) v.v... đều theo Âm lịch và không rơi vào ngày cố định trong Dương lịch.
Điểm Sóc xảy ra lúc Mặt trăng đi vào vùng giữa Mặt trời và Trái đất, tức là Mặt trời và Mặt trăng nằm về một phía của Trái đất (trường hợp thẳng hàng sẽ có nhật thực). Khi đó mặt nhìn thấy của Mặt trăng hoàn toàn không được chiếu sáng (điểm không Trăng). Trong thiên văn học, đó là điểm bắt đầu của một chu kỳ Trăng mới hay bắt đầu một tháng Âm lịch, trung bình khoảng 29,5 ngày xảy ra một lần.Giao thừalà điểm Sóc của tháng GiêngÂm lịch, cũng là thời khắc chuyển giao từ năm cũ sang năm mới Âm lịch.
Tết Nguyên đán được hiểu, theo truyền thống, là ngày đầu tiên của năm Âm lịch, không phải là ngày Lập Xuân. Nhưng do ý nghĩa lớn lao của nó, tùy theo phong tục mỗi nước, Tết này thường kéo dài nhiều ngày xung quanh ngày mùng 1 tháng GiêngÂm lịch.
Ở Trung Quốc, tên gọi “Nguyên đán, 元旦” có xu hướng chuyển sang cho Tết Dương lịch; còn tên gọi “Xuân tiết, 春节” được dùng để chỉ Tết Âm lịch. Ở Nhật Bản, Tết Nguyên đán đã được loại bỏ từ năm 1873, thời Minh Trị. Thay vào đó, họ đón Tết Oshougatsu (1/1, Tết Dương lịch), nhưng vẫn giữ lại nhiều phong tụcđặc sắc của Tết Nguyên đán cổ truyền.
Trong khi Trung Quốc thuộc GMT + 8, Triều Tiên và Hàn Quốc GMT + 9, Âm lịch của nước ta, theo Quyết định của Chính phủ số 121-CP năm 1967, được tính theo mốc kinh tuyến105 độ Đông, nằm giữa múi giờ 7,nên điểm Sóc ở các nước có thể rơi vào 1 trong 2 ngày Dương lịch liền kề nhau. Điều đó dẫn đến việc xê dịch ngày tháng Âm lịch, kéo theo ngày Tết Nguyên đán cổ truyền ở các nước,có những năm,không xảy ra cùng ngàyDương lịch.

Thêm bình luận


Mã an ninh
Làm tươi