Thứ ba, 13 Tháng 8 2024 14:18
Hiện nay có khoảng 12 triệu người đang sống chung cùng người khuyết tật (NKT) trong các hộ gia đình. NKT được hướng đến như những đối tượng yếu thế trong xã hội cần được hỗ trợ để hòa nhập cộng đồng. Con đường ngắn nhất để đưa thông tin chính sách, pháp luật đến cho người khuyết tật chính là truyền thông với người khuyết tật. Thực tế cho thấy NKT đã và đang tham gia vào hầu hết các hoạt động của xã hội và có vai trò như những người không khuyết tật. Vậy, làm thế nào để NKT tiếp tục nâng cao nhận thức – biết, hiểu và thực hiện các quy định chính sách, tự tin phản biện, góp ý xây dựng, bổ sung hoàn thiện chính sách…đối với các cơ quan xây dựng và hoàn thiện chính sách?

Hiện nay có khoảng 12 triệu người đang sống chung cùng người khuyết tật (NKT) trong các hộ gia đình. NKT được hướng đến như những đối tượng yếu thế trong xã hội cần được hỗ trợ để hòa nhập cộng đồng. Con đường ngắn nhất để đưa thông tin chính sách, pháp luật đến cho người khuyết tật chính là truyền thông với người khuyết tật. Thực tế cho thấy NKT đã và đang tham gia vào hầu hết các hoạt động của xã hội và có vai trò như những người không khuyết tật. Vậy, làm thế nào để NKT tiếp tục nâng cao nhận thức – biết, hiểu và thực hiện các quy định chính sách, tự tin phản biện, góp ý xây dựng, bổ sung hoàn thiện chính sách…đối với các cơ quan xây dựng và hoàn thiện chính sách?

Minh bạch về chính sách hỗ trợ

Quyền con người được ghi nhận và bảo vệ trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Năm 2014, Việt Nam đã phê chuẩn Hiến pháp của Liên hợp Quốc về quyền của người khuyết tật. Hiến pháp của Việt Nam đều thể hiện quyền này và người khuyết tật có quyền như người không khuyết tật. Hay nói cách khác người khuyết tật là một công dân của đất nước, một con người của dân tộc, không có sự phân biệt, tách biệt nào hết giữa nhóm người này hay nhóm người kia mà mọi người đều bình đẳng. Luật Người khuyết tật năm 2010 khẳng định mạnh mẽ quyền của người khuyết tật (NKT), những quyền vốn có của con người đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, cũng như các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPD).

Ảnh minh họa – Nguồn internet

 Trong cuốn “Sổ tay pháp luật về người khuyết tật” của Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Tạp chí Đồng Hành Việt năm 2021, “quyền của người khuyết tật bao gồm các quyền tự do cơ bản của con người, là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người – với tư cách là thành viên của cộng đồng và được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt với tư cách nhóm người đặc thù dễ bị tổn thương bởi sự khuyết tật, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.”

NKT là chịu nhiều thiệt thòi về cơ thể, tạo ra những suy giảm đáng kể và chịu nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động tư duy và sinh hoạt hàng ngày. Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị luôn quan tâm và có những quy định, chính sách phù hợp để hỗ trợ người khuyết tật vươn lên, hòa nhập cộng đồng. Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 – văn bản luật cao nhất sau đó đến các bộ luật hình sự, dân sự và lao động đều có quy định liên quan đến đối tượng là người khuyết tật để điều chỉnh.

Hầu hết các luật chuyên ngành hay các văn bản hướng dẫn thi hành luật, văn bản dưới luật hiện nay đã có quy định liên quan đến người khuyết tật. Kỳ họp Quốc hội thứ 13 năm 2010, đã ban hành Luật Người khuyết tật nhằm ban hành hành lang pháp lý quan trọng để bảo vệ những quyền cơ bản của người khuyết tật của các cơ quan, các tổ chức hệ thống chính trị và trách nhiệm của cả cộng đồng đối với người khuyết tật. Luật Người khuyết tật của Quốc hội có vai trò quan trọng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người khuyết tật, tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, xây dựng môi trường không rào cản, hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình.

Ông Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ tịch Quốc Hội trong chương trình “Toả sáng nghị lực Việt năm 2021” cũng khẳng định “Từ năm 2007, Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật nhằm bảo đảm, thúc đẩy để người khuyết tật được hưởng bình đẳng và đầy đủ các quyền tự do cơ bản của con người, thúc đẩy tôn trọng phẩm giá vốn có của người khuyết tật như người là bình thường.”.

Với mong muốn người khuyết tật tiếp tục vươn lên để hòa nhập cộng đồng một cách bình đẳng và đầy đủ, có những đóng góp cho xã hội. Đảng và Nhà nước tiếp tục dành nhiều sự quan tâm đến với người khuyết tật cũng như nhóm các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương để hoàn thiện chính sách mà nhất là thúc đẩy thực thi chính sách hiệu quả. Nhà nước đã ban hành, triển khai nhiều chủ trương, chính sách chăm lo, bảo đảm quyền và phát huy vai trò của người khuyết tật, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển bền vững. Đặc biệt khi cả hệ thống chính trị cùng tham gia vào việc thúc đẩy thực hiện quyền đối với người khuyết tật. Các chính sách, các chương trình trợ giúp người khuyết tật trong việc hiện thực hóa quyền đối với người khuyết tật như:  Ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến người khuyết tật; Quyết định số 753/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật. Tiếp đó, Quyết định số 1190/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021 – 2030…

Những chương trình này được ban hành nhằm góp phần hoàn thiện chính sách cho người khuyết tật và góp phần giải quyết các vấn đề hiện nay mà người khuyết tật cần hỗ trợ. Ông Đặng Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam cũng đã cho biết trên báo chí, “việc thực hiện pháp luật, chính sách đối với người khuyết tật hiện nay ở Việt Nam là tất cả hệ thống chính trị và chính quyền các cấp bởi như đã thông tin, việc ban hành Chỉ thị 39 là “bước ngoặt lịch sử” trong công tác đối với người khuyết tật (Trước đây cũng đã có một chỉ thị nhưng chủ yếu tập trung vào đối tượng người khiếm thị). Bên cạnh đó là việc giám sát của Quốc hội. Về cơ bản là được thực hiện theo quy định của pháp luật.”

Đảm bảo quyền được tiếp cận chính sách

Thông tin chính sách, pháp luật đến với NKT thường từ nhiều nguồn như từ người thân, hàng xóm, từ cán bộ địa phương. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp người nhận tiếp nhận thông tin máy móc, không hiểu bản chất của thông tin nên họ không thể nhớ được thông tin ấy chính xác như thế nào. Nhưng, thông tin cung cấp tới người khuyết tật mới chỉ mang tính hỗ trợ hòa nhập về kinh tế chưa đưa tới thông tin toàn diện về các khía cạnh khác của xã hội: văn hóa, giáo dục, y tế, chính trị. NKT tuy nhiên lại không thực sự hiểu rõ về thông tin mà họ có.

Năm 2022, tỉnh Thái Nguyên là một trong ba tỉnh trên toàn quốc được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội lựa chọn triển khai thí điểm phần mềm quản lý đối tượng bảo trợ xã hội. Sở Lao Động Thương Binh và Xã hội Thái Nguyên cũng có chế độ hỗ trợ tới các đối tượng hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng. Sở cũng phối hợp với các tỉnh lựa chọn để xây dựng mô hình trợ giúp và thí điểm dạy nghề gắn với tạo việc làm cho người khuyết tật; xây dựng phương án và bộ công cụ khảo sát để đề xuất các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho người khuyết tật để tự tạo việc làm; tập huấn nghiệp vụ cán bộ làm công tác trợ giúp người khuyết tật, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng… Đến nay, việc triển khai thực hiện hỗ trợ cho các nhóm đối tượng gặp khó khăn đảm bảo kịp thời, chặt chẽ, không trùng lặp đối tượng. Tư vấn và trợ giúp đối tượng thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức phù hợp khác để bảo vệ, trợ giúp đối tượng; xây dựng kế hoạch can thiệp và trợ giúp đối tượng; giám sát và rà soát lại các hoạt động can thiệp, trợ giúp và điều chỉnh kế hoạch.

Về trợ giúp y tế, sẽ hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về giám định khuyết tật, phục hồi chức năng và các chính sách bảo hiểm y tế cho người khuyết tật; phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ phát hiện sớm, can thiệp sớm khuyết tật, phục hồi chức năng và phẫu thuật chỉnh hình, cung cấp dụng cụ trợ giúp cho người khuyết tật; triển khai chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Bà Nguyễn Thị Quỳnh Hương, Giám đốc Sở Lao động – Thương Binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Với việc thực hiện đồng bộ các chính sách, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội đã được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế như vốn, đất sản xuất, công nghệ, thị trường…và các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, nước sạch, trợ giúp pháp lý… Chúng tôi quyết tâm tiếp tục làm tốt công tác bảo trợ xã hội, quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện đặc biệt khó khăn, người khuyết tật; tổ chức hoạt động phục hồi chức năng, văn hóa, thể thao, các hoạt động khác phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe của từng nhóm đối tượng theo quy định của pháp luật.”

Thực tế áp dụng và thực thi chính sách cho NKT vẫn còn nhiều bất cập, cần được nhận diện. Nhóm người NKT ở huyện Phú Lương, Thái Nguyên còn nhiều vướng mắc về các chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật. Một số khoảng trống pháp lý còn tồn tại như hiện nay chưa quy định về việc hội NKT được trợ giúp pháp lý. Về nguyên tắc, việc xác định mức hỗ trợ cần được đánh giá tổng thể trên cơ sở các điều kiện về nguồn lực tài chính, ngân sách hiện có và số lượng đối tượng thụ hưởng chính sách được rà soát ước tính của địa phương. Tuy nhiên, vẫn cần rất nhiều đối tượng NKT khó khăn được trợ giúp pháp lý, chưa thể tiếp cận bởi có nhiều rào cản trong quá trình thực thi.

Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP về cơ chế giao cơ quan có thẩm quyền được điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội so với mức 360.000 đồng/tháng: “Tùy theo khả năng cân đối của ngân sách, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tình hình đời sống của đối tượng bảo trợ xã hội, cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội cho phù hợp; bảo đảm tương quan chính sách đối với các đối tượng khác”. Theo tiết a khoản 3 Điều 4 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 13/3/2021 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội: “Tùy thuộc điều kiện kinh tế – xã hội tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định: a) Mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội áp dụng trên địa bàn bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn trợ giúp xã hội và mức trợ giúp xã hội quy định tại Nghị định này. Do đó mức chuẩn trợ cấp xã hội hàng tháng sẽ do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi xem xét xét kỹ các yếu tố kinh tế, xã hội, nguồn ngân sách quyết định. Tại Thái Nguyên, ngày 04/11/2021 HĐND Tỉnh ban hành Nghị quyết số 15/ 2021/NQ -HĐND xác định mức chuẩn trợ giúp xã hội ngoài cộng đồng là 360.000 đồng/tháng.

Có thể thấy, NKT có điều kiện được tiếp cận chính sách thông qua khả năng học tập, lao động vươn lên sống độc lập, hòa nhập xã hội, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội và giúp đỡ NKT khác. Tuy nhiên, dù đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhưng đời sống của một bộ phận không nhỏ NKT còn nhiều khó khăn, nhất là NKT đặc biệt nặng. Vẫn còn NKT chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận chưa đầy đủ các chính sách trợ giúp của Nhà nước, đặc biệt là về y tế và tín dụng. Mức trợ cấp xã hội cho NKT chậm được điều chỉnh, công tác tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về NKT còn chậm, chưa toàn diện,..

Thúc đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật đòi hỏi trước hết phải có sự thừa nhận rằng tất cả mọi người đều là thành viên đầy đủ của xã hội, đồng thời tôn trọng tất cả các quyền của họ. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để NKT tiếp cận chính sách chính là thúc đẩy sự hình thành môi trường không phân biệt đối xử và cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật tiếp cận thông tin về luật pháp, các chính sách, các điều luật và chính sách liên quan đến lợi ích của người khuyết tật trong xã hội.

Nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội

Mặc dù đã có nhiều sự thay đổi lớn đối với người khuyết tật trong những năm gần đây, nhưng để người khuyết tật thực sự được hòa nhập bình đẳng và đầy đủ vào cộng đồng xã hội thông qua quá trình chủ động thực thi chính sách, cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức và nhân dân trong thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về trợ giúp NKT. Coi trọng quyền, giá trị và vai trò của NKT. Thái độ kỳ thị đối với người khuyết tật là một rào cản nghiêm trọng đối với sự tham gia vào xã hội của họ. Các các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách cần thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm xã hội để đảm bảo người khuyết tật có thể được tiếp cận quyền, cần có cơ chế thúc đẩy, giám sát việc thực hiện chính sách.

Thứ hai, tích cực đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho NKT bằng hình thức phù hợp. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với NKT; hỗ trợ, tạo điều kiện phát huy năng lực của NKT và các tổ chức NKT để làm tốt vai trò đại diện, tập hợp, đoàn kết, là cầu nối giữa NKT với Đảng, Nhà nước; bảo đảm kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hướng tới một xã hội không rào cản đối với NKT.

Thứ ba, tiếp tục thể chế chủ trương, quan điểm của Đảng trong sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về NKT. Nâng dần mức trợ cấp xã hội phù hợp với các mức sống trong xã hội, khả năng ngân sách nhà nước; trợ giúp NKT, hỗ trợ NKT cải thiện chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, chính sách cho vay hỗ trợ, tạo việc làm duy trì và mở rộng việc làm cho NKT hiện nay, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình trợ giúp NKT;..

Thứ tư, tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về người khuyết tật. Không để tình trạng “nơi thừa, chỗ thiếu”. Rà soát lại chính sách, pháp luật, tìm ra những khoảng trống trong chính sách để từ đó cùng các cơ quan nhà nước có những sửa đổi cho phù hợp với với thực tế và điều kiện, hoàn cảnh.

Thứ năm, truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng là một trong những phương pháp của công tác xã hội hướng tới hỗ trợ người khuyết tật hòa nhập cộng đồng. Truyền thông về người khuyết tật cần trên mọi phương diện của đời sống xã hội như đối với một công dân bình thường. Qua truyền thông, tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, chính sách đối với người khuyết tật đặc biệt là quyền lợi và nghĩa vụ của người khuyết tật, nói lên tiếng nói của người khuyết tật, những nguyện vọng, tâm tư góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách. Các tổ chức có liên quan tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình trợ giúp người khuyết tật; khuyến khích người khuyết tật vươn lên sống độc lập, hoà nhập xã hội, góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội và giúp đỡ người khuyết tật khác…

Người khuyết tật sẽ có thể đảm bảo được quyền của mình, có thể tự tin hòa nhập một cách bình đẳng và đầy đủ vào cộng đồng xã hội, ngoài sự quan tâm có hiệu quả của các cơ quan nhà nước, thì bản thân NKT cần biết, hiểu và thực hiện các quy định chính sách, từ đó góp ý xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách… Do vậy, rất cần tiếp tục thể chế chủ trương, quan điểm của Đảng; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về người khuyết tật bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, từng địa phương, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội và an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội./